Một ngày cuối năm 1996, tại một căn phòng họp ở Hà Nội, TS Lê Văn Châu (lúc đó đang là Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) đứng trước một quyết định thay đổi cả sự nghiệp của mình. Thủ tướng Võ Văn Kiệt đưa ra lời đề nghị ông đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước – một cơ quan chưa từng tồn tại ở Việt Nam.
Đảm trách cương vị mới bao hàm cả một thử thách lớn lao, khi mà thị trường chứng khoán còn là một khái niệm xa lạ, gần như không tưởng đối với một đất nước vừa thoát khỏi bóng tối của nền kinh tế bao cấp và đang chập chững trên con đường đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế.
Với nhiều người, đó là một vùng đất đầy rủi ro và thất bại có thể dễ dàng xảy ra hơn thành công. Nhưng đối với TS Lê Văn Châu, đây lại là cơ hội để đưa Việt Nam tiến gần hơn đến nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặt nền móng cho một trong những trụ cột quan trọng của nền kinh tế Việt Nam.
TS Lê Văn Châu xuất thân là một cán bộ ngành Ngân hàng, được Đảng và Nhà nước lựa chọn gửi đi đào tạo bài bản ở nhiều nước. Ông được rèn luyện, thử thách trong chiến tranh qua việc tham gia tổ chức B29, một trong ba tổ chức thiết lập và vận hành “Con đường tiền tệ đặc biệt trong kháng chiến chống Mỹ”.
Tới năm 1987, sau 10 năm theo dõi và làm việc với các tổ chức tiền tệ quốc tế, ông Lê Văn Châu được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đề nghị Chính phủ cử làm Giám đốc điều hành phụ khuyết tại Ngân hàng Thế giới.
Với việc trở thành đại diện cho Ngân hàng Nhà nước làm việc tại Mỹ, ông Lê Văn Châu đã có cơ hội để đọc, tìm hiểu, lắng nghe và trực tiếp chứng kiến nền kinh tế Mỹ giai đoạn đó. Trong một lần về nước, ông Châu tham dự buổi họp với các đồng chí lãnh đạo và báo cáo đầy đủ cách thức vận hành nền kinh tế và thị trường vốn của Mỹ, hoạt động huy động vốn qua phát hành trái phiếu Chính phủ, thị trường chứng khoán – kênh huy động vốn quan trọng bậc nhất của nền kinh tế và doanh nghiệp Mỹ.
Buổi báo cáo kéo dài tới tận 22 giờ đêm, ông Châu sau đó vội vàng lên máy bay sang Mỹ tiếp tục thực hiện nhiệm vụ, trong khi các Lãnh đạo tiếp tục họp lại. Cũng từ đó, việc manh nha tư tưởng xây dựng thị trường vốn, tiến tới là thị trường chứng khoán Việt Nam đã bắt đầu nảy sinh trong các nhà lãnh đạo hàng đầu đất nước. Đó là sự chuyển biến từ nhận thức đến hoạch định chính sách trong công cuộc đổi mới, mang tính bước ngoặt nhưng bao hàm không ít trở ngại, khó khăn của giai đoạn đặt nền móng ban đầu.
Thực tế, vào thập niên 1990, Việt Nam giống như một con tàu vừa vượt qua cơn bão kinh tế, chuyển mình mạnh mẽ dưới ngọn cờ đổi mới. Tuy nhiên, ý tưởng thành lập thị trường chứng khoán đối mặt với nhiều hoài nghi. Nhiều người cho rằng đây là một lĩnh vực quá mới mẻ, ví von như “chui vào bụi rậm” đầy rủi ro cộng thêm lo ngại gắn liền với hai chữ “Tư bản”. Doanh nghiệp hầu như “mơ hồ” với các khái niệm cổ phiếu, cổ phần, cổ tức, nhà đầu tư thiếu kiến thức và cả nước thiếu nhân sự chuyên môn hay khung pháp lý phù hợp.
TS Lê Văn Châu đứng trước một lựa chọn có hay không dấn thân vào một con đường chưa từng có tiền lệ ở Việt Nam – Uỷ ban Chứng khoán Nhà Nước. Gia đình và đồng nghiệp lo lắng, nhiều người khuyên ông nên ở lại Ngân hàng Nhà Nước với vị trí Phó Thống đốc thay vì chuyển sang lĩnh vực chứng khoán với tính chất mới mẻ và đầy rủi ro.
Vậy nhưng, ông Châu tin rằng thị trường chứng khoán sẽ đặt nền móng cho sự phát triển kinh tế thị trường, bởi con đường của đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là tất yếu.
Để khẳng định vị thế của cơ quan mới, ông Châu đề xuất đặt tên là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), thay vì các tên gọi khác như Ủy ban Chứng khoán Việt Nam hay Ủy ban Chứng khoán Quốc gia. Tên gọi này nhấn mạnh sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với lĩnh vực chứng khoán. Ông cũng kiến nghị UBCKNN trực thuộc Chính phủ trong thời kỳ đầu xây dựng và phát triển, bởi giai đoạn này cần sự ưu tiên, tập trung cao độ để thúc đẩy việc hình thành thị trường chứng khoán, cần những quyết sách nhanh, đủ mạnh từ việc xây dựng mô hình, hệ thống văn bản pháp lý, vấn đề cơ cấu bộ máy nhân sự, cơ sở vật chất, kỹ thuật…
Đề xuất của ông được sự đồng thuận nên ngay từ thời kỳ đầu và kéo dài 8 năm sau đó, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước trực thuộc Chính phủ. Nền móng cơ bản cho một thị trường chứng khoán phát triển hàng chục năm sau đó cũng đã được xây dựng trong giai đoạn này.
Cho đến năm 1996, vẫn có nhiều người lo lắng, băn khoăn có nên ra đời Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước hay không do tình hình kinh tế chưa thuận. Tuy nhiên, ông Châu kiên định rằng năm 1996 là thời điểm phù hợp, bởi đất nước đã đi được trọn một thập kỷ đổi mới dưới ngọn cờ của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế đã bước qua thời kỳ khó khăn nhất để đạt được những thành tựu quan trọng. Khu vực kinh tế tư nhân phát triển ngày càng mạnh, tạo điều kiện thuận lợi đưa đất nước bước vào thời kỳ mới công nghiệp hoá và hiện đại hoá, tạo tiền đề để xây dựng thị trường chứng khoán – kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư, phát triển kinh tế đất nước.
Những ngày đầu khi Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước được thành lập, TS Lê Văn Châu bắt đầu từ những điều cơ bản nhất chính là xây dựng đội ngũ nhân sự. Quan điểm đưa ra xác định chứng khoán là ngành mới do đó cần tuyển những cán bộ trẻ có trình độ tài chính, ngân hàng và kinh tế vĩ mô, những người có năng lực công tác và khả năng cống hiến lâu dài. Sau khi xem xét, ông Châu bàn với lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước xin tiếp nhận toàn bộ Ban nghiên cứu thị trường vốn, đồng thời tiếp nhận một số lãnh đạo cấp Vụ, Cục của Ngân hàng Nhà nước về làm nòng cốt xây dựng bộ máy Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
Tới ngày 28/11/1996, Nghị định 75/1996/NĐ-CP ra đời, chính thức thành lập Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Đội ngũ nhân sự gồm 42 người từ Ban Nghiên cứu thị trường vốn (Ngân hàng Nhà nước) và 24 cán bộ từ Bộ Tài chính, Kho bạc Nhà nước. Đây hầu hết đều là những người chưa từng làm việc với chứng khoán, đứng trước một lĩnh vực mà ngay cả sách vở cũng không đủ để hướng dẫn, tạo ra một rào cản lớn. Chính vì vậy, quá trình xây dựng đội ngũ tiếp tục diễn ra sau đó với tiêu chí nhân sự phải có trình độ cao và hiểu biết rộng.
Đồng thời, ông Châu cùng tập thể lãnh đạo Ủy ban cũng trình Thủ tướng Chính phủ cho cán bộ được hưởng ba lần lương cơ bản nhằm động viên, khích lệ đội ngũ nhân sự đầu tiên thành lập ngành. Từ năm 1997 đến năm 2000, trên tiêu chí tuyển dụng với yêu cầu cao về trình bộ, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã dần xây dựng đội ngũ lên trên 200 người, hầu hết được cử đi học và khảo sát tại nhiều quốc gia và một số tổ chức quốc tế để cập nhật kiến thức. Bộ máy ấy đã từng bước phát triển vững vàng về cả số lượng và chất lượng, đáp ứng nhu cầu phát triển của TTCK Việt Nam.
Trong quãng thời gian đầu thành lập, hợp tác quốc tế trở thành chiếc phao cứu sinh để xây dựng năng lực cho UBCKNN. Hàn Quốc tài trợ 2 triệu USD, cung cấp 30 máy tính chuyên dụng để đào tạo giao dịch giả định, giúp cán bộ làm quen với các quy trình của thị trường chứng khoán. Thái Lan hỗ trợ công nghệ và máy chủ, Đài Loan cung cấp bảng giá. Nhật Bản tổ chức các khóa học kéo dài 3 tháng, mang lại kiến thức chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ.
Ngoài cung cấp thiết bị chuyên dụng, các chuyên gia từ các nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức đến Việt Nam để hướng dẫn tận tình, "cầm tay chỉ việc", đảm bảo cán bộ UBCKNN học hỏi được từ các thị trường phát triển. Tháng 12/1997, ông Châu trình Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ thành lập Trung tâm Nghiên cứu khoa học và Đào tạo chứng khoán, đặt nền móng cho hoạt động đào tạo dài hạn. Công tác thông tin tuyên truyền cũng được thực hiện kịp thời khi số Tạp chí Chứng khoán số đầu tiên xuất bản vào tháng 8/1997, được ví như một ngọn lửa nhỏ thắp lên nhận thức về chứng khoán tại Việt Nam.
Cũng theo chia sẻ TS Lê Văn Châu thuật lại, năm 1997, ông từng có cơ hội quay lại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để trở thành Thống đốc. Tuy nhiên, ông từ chối với lý do UBCKNN mới vận hành chưa đầy một năm. Nếu ông rời đi, đội ngũ trẻ vừa xây dựng sẽ rất dễ lung lay. Kể điều này để thấy quyết định ở lại và sự tận tâm với sứ mệnh xây dựng ngành chứng khoán của ông Châu.
Hành trình gây dựng thị trường chứng khoán được ông Châu cùng đội ngũ cán bộ bồi đắp bằng những thủ tục từ cơ bản nhất đến phức tạp nhất. Khuôn khổ pháp lý ban đầu được dự kiến sẽ là pháp lệnh về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, điểm đặc thù của nước ta là một lĩnh vực mới thường được triển khai bằng một nghị định của Chính phủ trước khi tiến hành xây dựng Luật. Do đó, tháng 7/1998, Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán được ban hành, quy định việc phát hành chứng khoán ra công chúng, giao dịch chứng khoán và các dịch vụ liên quan trên lãnh thổ Việt Nam.
Sự trợ giúp của bạn bè quốc tế cũng giúp định hình về mô hình và lộ trình phù hợp. Ông Châu và đội ngũ UBCKNN đã mời được Công ty tài chính quốc tế (IFC) thuộc nhóm WB giúp đỡ xây dựng hệ thống văn bản pháp lý. IFC đã cử một số chuyên gia cùng UBCKNN khởi tạo, xây dựng Pháp lệnh cho thị trường chứng khoán Việt Nam, sau này làm nền tảng ra đời Nghị định. Trong thời gian soạn thảo Pháp lệnh về chứng khoán và thị trường chứng khoán, IFC đã tổ chức rất nhiều khoá đào tạo, tập huấn cho cán bộ ngành Tài chính và Ngân hàng tại Việt Nam và nước ngoài. Ông nói, không có lựa chọn nào khác ngoài việc “vừa làm vừa học”, vừa điều chỉnh vừa cập nhật theo kinh nghiệm các nước đi trước.
Quá trình "tìm nhà" cũng là cả một câu chuyện dài với nhiều kỷ niệm. Về trụ sở UBCKNN, ông Châu đề xuất lấy tòa nhà 164 Trần Quang Khải, trước đây thuộc Bộ Thủy lợi. Tuy nhiên, do Bộ này chưa bàn giao ngay dẫn tới trụ sở ban đầu của UBCKNN chỉ là hai tầng thuê tạm tại tòa nhà Tung Shing với chi phí 300 triệu đồng/tháng – một khoản tiền không nhỏ thời bấy giờ. Sau nhiều lần đàm phán, với sự can thiệp của Văn phòng Chính phủ, tòa nhà 164 Trần Quang Khải cuối cùng được bàn giao, trở thành trụ sở chính thức của UBCKNN.
Tới khi thị trường chứng khoán sắp ra đời, việc lo trụ sở cho Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (nay là HOSE) cũng là một vấn đề cấp bách. Ban đầu, Văn phòng Chính phủ giao toà nhà 7 tầng tại số 9 đường Lê Duẩn để lập trụ sở. Tuy nhiên, ông Châu nhận thấy địa điểm này khó đáp ứng được yêu cầu về lâu dài. Đó là một tòa nhà chỉ phù hợp làm văn phòng, không thích hợp để làm sàn chứng khoán.
Vậy nên trong chuyến đi đến nhà Thủ tướng Võ Văn Kiệt tại TP.HCM, ông Châu đề xuất lấy trụ sở Thượng viện cũ ở bến Chương Dương làm trụ sở Trung tâm Giao dịch. Ông Châu lý giải rằng vị trí này nằm trên trục đường có nhiều ngân hàng, phù hợp để xây dựng một trung tâm tài chính. Thủ tướng đồng ý và chỉ ít ngày sau đã có quyết định bàn giao. Đồng thời, Chính phủ cấp luôn 50 tỷ đồng làm công tác giải tỏa vì có 7 cơ quan đang làm việc thời điểm đó, giúp Trung tâm Giao dịch nhanh chóng hình thành.
Sau này, việc tìm đất xây dựng trụ sở cho Trung tâm GDCK Hà Nội (nay là HNX) cũng thuận lợi tương tự như tìm đất làm trụ sở cho HOSE nhờ sự ủng hộ mạnh mẽ của lãnh đạo Chính phủ, UBND TP. Hà Nội. Điều này giúp ngành chứng khoán Việt Nam có hệ thống cơ sở vật chất hiện đại, với những vị trí "đắc địa" đặt trụ sở.
Vậy nhưng, thuyết phục doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu mới là một trong những thách thức lớn nhất. Khi đó, bối cảnh kinh tế toàn cầu khó khăn, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998 càng làm tăng thêm thách thức. Ngay cả các quỹ đầu tư ngoại cũng phải chịu thua lỗ hoặc rút khỏi Việt Nam. Điều này khiến việc thu hút doanh nghiệp niêm yết càng trở nên gian nan.
Từ thực tế đó, ông Châu cùng ban lãnh đạo Uỷ ban muốn xây dựng một kế hoạch vừa phục vụ nhiệm vụ khai trương thị trường trước mắt, vừa mang tính chất "nuôi sống" thị trường lâu dài. Ông Châu vừa là nhà hoạch định chính sách, vừa là người đi gõ cửa từng bộ ngành để làm việc, vừa là giảng viên “truyền giáo” về khái niệm cổ phần, niêm yết, công bố thông tin… Một lần, tại một tổng công ty nhà nước lớn, vị Chủ tịch HĐQT thẳng thừng: “Tội gì lên sàn chứng khoán để rồi phải minh bạch cho phiền phức?”
Vụ trưởng Vũ Thị Kim Liên (sau này là Phó Chủ tịch UBCKNN), một nhân viên thân cận của ông Châu từng kể về một lần thuyết trình hàng giờ về lợi ích của thị trường chứng khoán. Một giám đốc doanh nghiệp nghe xong đã rất thật lòng bình luận: “Nghe chị nói thì thị trường chứng khoán đúng là rất hấp dẫn, nhưng khi cả nền kinh tế đang tù mù mà chị bảo tôi ra niêm yết, phải công khai, minh bạch, khác nào bảo tôi nhảy ra ánh sáng để thiên hạ soi mói”. Nhiều doanh nghiệp từ chối thẳng thừng hoặc chỉ trả lời “sẽ cân nhắc”, không hơn.
Những khó khăn này khiến số lượng doanh nghiệp đồng ý niêm yết giảm mạnh. Đến đầu năm 2000, từ 14 doanh nghiệp ban đầu dự kiến niêm yết, tụt xuống chỉ còn 2 doanh nghiệp, ông Lê Văn Châu lúc đó không còn giữ vị trí Chủ tịch UBCKNN mà lui về vị trí Cố vấn cao cấp. Nhưng ngay cả khi không còn giữ vị trí chính thức ở UBCKNN, ông Châu vẫn sát cánh cùng đội ngũ của mình không ngừng thúc đẩy mạnh mẽ cho sự ra đời của TTCK Việt Nam.
UBCKNN liên tục phối hợp với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước tổ chức nhiều cuộc họp, hội thảo nhằm giải thích lợi ích của hoạt động niêm yết, làm việc với các bộ ngành để tháo gỡ vướng mắc. Mỗi cuộc gặp là một cơ hội để thay đổi tư duy, dù chỉ một chút từ đó đưa doanh nghiệp đến gần hơn với thị trường chứng khoán.
Sau gần 4 năm chuẩn bị, ngày 20/7/2000, Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM đã chính thức khai trương, với 2 mã cổ phiếu đầu tiên là Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh (REE) và Công ty Cổ phần Cáp – Vật liệu viễn thông (SAM), tổng vốn hóa đạt 400 tỷ đồng. Đây là một dấu mốc lịch sử, nhưng đằng sau ánh hào quang là những ngày tháng căng thẳng.
Một số ý kiến đề xuất lùi ngày khai trương TTCK do thiếu doanh nghiệp tham gia, nhưng các lãnh đạo cấp cao của UBCKNN vẫn quyết tâm mở cửa. Sự hỗ trợ từ Thái Lan với hệ thống giao dịch và FPT với hệ thống lưu ký, thanh toán đã giúp phiên giao dịch đầu tiên diễn ra thành công. Trong thâm tâm, ông Châu luôn cảm ơn sâu sắc những thành viên ban đầu của thị trường, các công ty niêm yết, công ty chứng khoán, quản lý quỹ và 2.900 nhà đầu tư – những người chung tay đặt nền móng cho thị trường chứng khoán Việt Nam trong buổi đầu trứng nước với muôn vàn gian khó.
Tuy nhiên, khó khăn vẫn chưa dừng lại. Giai đoạn đầu, thanh khoản thị trường rất thấp, số lượng công ty niêm yết ít, cơ chế giao dịch thủ công, công nghệ lạc hậu, nhà đầu tư thiếu thông tin. UBCKNN phải liên tục điều chỉnh, cập nhật, học hỏi từ các nước đi trước. Các quy trình giao dịch được tinh chỉnh, các hướng dẫn cho doanh nghiệp và nhà đầu tư được cập nhật liên tục.
UBCKNN cũng tăng cường làm việc với các cơ quan như Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, để tháo gỡ các rào cản pháp lý và hành chính. Mỗi bước tiến, dù nhỏ, đều là kết quả của sự kiên trì và quyết tâm không ngừng nghỉ.
Ông Lê Văn Châu chia sẻ, thị trường chứng khoán không thể lớn mạnh chỉ trong một sớm một chiều mà cần thời gian, cần sự đồng lòng. Với việc thị trường chính thức đi vào giao dịch ngày 28/7/2000, ông Châu cho rằng đó cũng là một chiến thắng của tư duy cải cách.
Sự phát triển của thị trường không chỉ nằm ở con số tăng điểm, mà là sự thay đổi trong tư duy của doanh nghiệp và nhà đầu tư. Theo ông, phát triển thành công thị trường chứng khoán nhưng mỗi thành viên trong thị trường đều phải trân quý những đồng vốn huy động được, trân trọng những thành quả phát triển kinh tế đất nước, phụng sự sự nghiệp chăm lo đời sống của nhân dân.
Sau hơn 25 năm, từ một mô hình sơ khai với vài cổ phiếu, đến nay thị trường chứng khoán Việt Nam có gần 1.700 doanh nghiệp đang giao dịch, tổng giá trị vốn hóa đạt hơn 7,5 triệu tỷ đồng. Số tài khoản nhà đầu tư tăng từ 2.900 lên hơn 10 triệu, 54 doanh nghiệp niêm yết đạt quy mô trên 1 tỷ USD, và nhiều công ty đã vươn ra thị trường quốc tế. Hàng nghìn doanh nghiệp, hơn 10 triệu tài khoản nhà đầu tư, hàng tỷ USD vốn hóa thị trường.
Từ việc chỉ có thị trường giao dịch cổ phiếu phổ thông đơn thuần, thị trường chứng khoán Việt Nam đã từng bước mở rộng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Những sản phẩm tài chính hiện đại như chứng quyền có bảo đảm, hợp đồng phái sinh đã lần lượt ra đời, đáp ứng nhu cầu phòng ngừa rủi ro và đa dạng hóa đầu tư của thị trường. Trong tương lai gần, thị trường sẽ tiếp tục đón nhận các mô hình giao dịch mới như thị trường carbon hay tài sản số. Đây đều là những xu hướng đang lan rộng toàn cầu, góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế bền vững.
TS Lê Văn Châu chưa từng nhận mình là “cha đẻ” thị trường chứng khoán, ông chỉ tự hào là người được giao nhiệm vụ "khai sơn phá thạch", đặt nền móng cho một ngành kinh tế mới của đất nước và đã cố gắng hết sức để hoàn thành nó. Không chỉ vì ông đã lựa chọn tiếp tục đồng hành với thị trường chứng khoán non trẻ, mà còn vì điều ấy thể hiện một niềm tin kiên định vào con đường ông đã chọn. Khi nhìn lại, ông vẫn thấy tự hào khi thị trường chứng khoán đã trở thành một phần không thể thiếu của nền kinh tế Việt Nam.
Từ một ý tưởng bị hoài nghi, ông cùng với những đồng đội của mình biến giấc mơ TTCK – thể chế bậc cao của nền kinh tế thị trường, thành hiện thực. Cải cách không bao giờ dễ dàng, nhưng nếu không bắt đầu, sẽ không bao giờ tới đích. Di sản của Lê Văn Châu với TTCK không chỉ là những con số ấn tượng đã được hiện thực hoá, mà còn là thông điệp về quyết tâm và tầm nhìn, minh chứng rằng với sự kiên trì, Việt Nam có thể đạt được những mục tiêu lớn lao trên con đường phát triển.